Tuesday, January 14, 2014

Từng bước nâng cao giá trị gia tăng

lua1140114.jpg

Trong bối cảnh tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhu cầu tiêu dùng giảm kéo theo giá nông sản giảm nhưng tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành Nông nghiệp vẫn đạt 2,67%, tương đương mức tăng của năm 2012 là 2,68%. Đáng chú ý, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2013 đạt 27,5 tỉ USD, tăng 0,7% so năm 2012 với thặng dư thương mại hơn 8,5 tỉ USD là những tín hiệu đáng mừng của ngành Nông nghiệp trong quá trình đẩy mạnh tiêu thụ hàng nông sản, tiến tới từng bước nâng cao giá trị gia tăng cho ngành.

TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KHÁ
Nhìn lại một năm cho thấy, năm 2013, ngành Nông nghiệp tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức cho tiêu thụ nông sản cả xuất khẩu và trong nước. Vốn đầu tư thấp hơn nhiều so với nhu cầu thực tế, lãi suất vốn vay mặc dù đã giảm nhưng vẫn còn cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp và các chi phí vật tư đầu vào tăng cao... nhưng ngành Nông nghiệp vẫn giữ được sự tăng trưởng khá góp phần vào tăng trưởng chung của cả nước, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội và xây dựng nông thôn mới.
Toàn ngành đã tích cực thực hiện quyết liệt, đồng bộ Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ về những giải pháp chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 24/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, triển khai thực hiện đề án “Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013.
Tại cuộc họp tổng kết toàn ngành năm 2013, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát nhấn mạnh: Ngành Nông nghiệp tuy đạt được mức tăng trưởng khá nhưng tính bền vững chưa cao và tính chung cả năm vẫn trong xu hướng chậm dần. Các giải pháp tiêu thụ nông sản chưa thật sự căn cơ, chiến lược, mới chỉ là các giải pháp tình thế, ngắn hạn. Đây vẫn là “điểm nghẽn” cản trở sự tăng trưởng của ngành. Sản lượng nhiều loại nông sản đã dần tăng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Tổng sản lượng lương thực có hạt ước đạt 49,3 triệu tấn, tăng 558.500 tấn so với năm 2012. Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Diện tích cà phê đạt 635,2 nghìn ha, sản lượng đạt 1,3 tỉ tấn, tăng 2,3%; cao su đạt 974.000ha, sản lượng đạt 934.500 tấn, tăng 8,2%; diện tích chè đạt 130.000ha, sản lượng đạt 935.000 tấn, tăng 1,3%. Riêng diện tích điều vẫn có xu hướng giảm.
Đối với thủy sản, tổng sản lượng cả năm tuy tăng, nhưng hoạt động nuôi trồng có những diễn biến trái chiều khi đầu năm, nhu cầu tiêu thụ thủy sản của các thị trường chính (EU và Hoa Kỳ) bị sụt giảm mạnh, đặc biệt là giá cá tra và cuối năm mới có dấu hiệu tăng trưởng trở lại. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh thủy sản, xuất khẩu cá tra khó tiêu thụ hàng hóa, tồn kho và nợ đọng kéo dài nên giảm thu mua cá nguyên liệu, người nuôi bị thua lỗ, bỏ nuôi khá nhiều. 

THÁO GỠ KHÓ KHĂN, HỖ TRỢ SẢN XUẤT
Cùng với sản xuất, chăn nuôi tiếp tục là lĩnh vực gặp nhiều khó khăn do giá bán sản phẩm chăn nuôi liên tục giảm, giá các loại thức ăn biến động tăng ở mức cao và sự cạnh tranh của hàng nhập lậu nên hàng tồn kho lớn. Doanh nghiệp và người chăn nuôi bị thua lỗ, giảm đầu tư. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ và chỉ đạo quyết liệt ngăn chặn tình trạng nhập lậu nên đã kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân. Trong khi đó, công tác giám sát, phòng chống dịch bệnh cũng được tăng cường, không để xảy ra dịch bệnh trên phạm vi lớn, nhờ đó, thị trường tiêu thụ thuận lợi, giá bán các sản phẩm có xu hướng tăng.
Trước thực tế này, Bộ trưởng Cao Đức Phát cho rằng Chính phủ đã chỉ đạo các ngành, đưa ra các giải pháp, chính sách tháo gỡ khó khăn kịp thời để thúc đẩy sản xuất. Cùng đó là các chính sách hỗ trợ áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư máy móc, thiết bị bảo quản, tăng hiệu quả và tính bền vững trong hoạt động khai thác hải sản. Các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản tiếp tục được ban hành và triển khai thực hiện. Chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản tiếp tục được thực hiện. Hỗ trợ tiêu thụ để đảm bảo lợi ích cho người nông dân như chính sách hỗ trợ lãi suất tạm trữ, khoanh nợ, giãn nợ… Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất vốn vay thương mại đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để mua máy, thiết bị chế biến, giảm tổn thất, giảm chi phí, nâng cao chất lượng.
Các chính sách trên đã thực sự phát huy hiệu quả, hỗ trợ trực tiếp cho nông dân, doanh nghiệp góp phần giảm chi phí, giảm thất thoát trong thu hoạch bảo quản và chế biến, nâng cao hiệu quả. Trong công tác giảm tổn thất sau thu hoạch, tính đến tháng 10/2013, đã có 15 tổ chức, cá nhân sản xuất máy móc, thiết bị giảm tổn thất sau thu hoạch được hưởng chính sách hỗ trợ với số dư nợ cho vay gần 2.000 tỉ đồng.
ĐỔI MỚI “BỘ MẶT” NÔNG THÔN
Trong năm 2013, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã tập trung chỉ đạo sâu sát và ưu tiên nguồn lực đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới (gọi tắt là Chương trình), làm thay đổi “bộ mặt” nông thôn. Theo đó, bộ máy chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình từ Trung ương đến các địa phương được củng cố, hoạt động tích cực, chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể nên những khó khăn, vướng mắc dần được tháo gỡ. Nhiều địa phương, công tác chỉ đạo, kiểm tra thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Nghị quyết 26) và xây dựng nông thôn mới đã trở thành chương trình công tác thường xuyên của cấp ủy và HĐND các cấp.
Tính đến cuối năm 2013, tỉ lệ các xã hoàn thành quy hoạch nông thôn mới đạt 93%; có 7.995 trên tổng số 9.084 xã phê duyệt xong đề án Xây dựng nông thôn mới. Tổng vốn huy động xã hội cho Chương trình được 41.365 tỉ đồng; trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ 1.680 tỉ đồng, ngân sách địa phương là 12.594 tỉ đồng, vốn tín dụng là 15.152 tỉ đồng, vốn của doanh nghiệp và cộng đồng là 11.939 tỉ đồng. Nhiều địa phương đã có cách làm hay, chính sách tốt trong việc lồng ghép và huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới .
Đặc biệt, thông qua Chương trình đã có trên 7.000 mô hình sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Nổi bật trong phát triển sản xuất ở các địa phương là việc dồn điền, đổi thửa gắn với quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa ở hầu hết các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và xây dựng “cánh đồng mẫu lớn”, “cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp” ở các tỉnh phía Nam. Một số tỉnh, thành phố bước đầu quan tâm chỉ đạo hình thành các mô hình sản xuất nông nghiệp gắn với du lịch; ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất theo hướng nông nghiệp đô thị; gắn kết nông dân với doanh nghiệp để hình thành chuỗi sản xuất, tiêu thụ…

HOÀNG LINH -  (TTXVN)
Read more ...

Thursday, January 9, 2014

NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ HAY HỮU CƠ HÓA NÔNG NGHIỆP

TÓM TẮT 

Trên  quan  điểm  so  sánh  những  ưu  và  nhược  điểm  của  nền  nông  nghiệp  hữu  cơ  và  nông nghiệp hóa học để  có cách lựa chọn nên ưu tiên loại  hình nào cho phù hợp với thực trạng một nền kinh tế  nông nghiệp của đất nước. Tác giả  cho rằng nông nghiệp hữu cơ  thực chất là cốt lõi của nền nông nghiệp truyền thống nhưng có hỗ  trợ  của các yếu tố  kỹ  thuật tiên tiến của nhiều ngành khoa học nên có tiến bộ  hơn nền nông nghiệp truyền thống. Kể  từ  khi xuất hiện mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ  vào năm 1940, cho đến nay về  diện tích mới chỉ  đạt được khoảng 1-2% tổng số  diện tích canh tác của toàn thế  giới và cũng mới cung cấp cho khách hàng khoảng 1% sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. 

Ở  Việt Nam, các mô hình nông nghiệp hữu cơ  mới được xuất hiện gần đây với diện tích và sản phẩm thu được còn quá khiêm tốn. Trong lúc đó phần lớn khách hàng thế giới và trong nước đang cần sản phẩm nông nghiệp đạt tiêu chuẩn GAP, kể  cả VietGAP hay GlobalGAP. Mặt khác do thực tiễn ở Việt Nam có trên 70% dân số là nông dân, nhưng bình quân ruộng đất trên từng hộ rất ít  ỏi, họ  vừa cần cả  năng suất cao và giá cảhợp lý, vì vậy, tác giả  đề  xuất quan điểm vừa ứng dụng  nền  nông nghiệp  hữu cơ,  vừa phải ưu tiên  nền  nông  nghiệp hóa học. Nhưng chỉ   nên tập trung áp dụng sản xuất nông nghiệp hữu cơ  trên m ột số  chủng loại cây trồng nhạy cảm, dễ  bị  ô nhiễm các loại nông dược. Ưu tiên phần lớn diện tích giành cho áp dụng sản xuất nông nghiệp hóa học  theo tiêu chuẩn GAP, trong đó khuyến khích sử  dụng các loại phân bón hữu cơ  làm cơ sở để  mở rộng phạm vi nền nông nghiệp hữu cơ cho các thập kỷ tới. 

PHÉP SO SÁNH 

1. Lịch sử hình thành nền nông nghiệp hữu cơ

Theo định nghĩa  hiện  nay thì  nông  nghiệp  hữu cơ  thực chất  là gói kỹ  thuật của  nền  nông nghiệp truyền thống được hình thành từ  khi con người biết kỹ  thuật trồng trọt và chăn nuôi gia súc để sinh sống và tồn tại cho đến trước khi nền công nghiệp phân bón hóa học ra đời. Tính trên phạm vi thế  giới thì lấy  mốc khoảng năm 1913 (Ecomart.vn/home) khi thế  giới bắt đầu tổng hợp được đạm NH3, dần dần nông nghiệp hữu cơ nhường chỗ  cho nền nông nghiệp hóa học hóa vào giữa thế  kỷ  XX. Ở  Việt Nam có thể  kể  đến tháng 6 năm 1962, khi mẻ  phân super lân Lâm Thao đầu tiên  ra đời (ở  miền Bắc)  và cũng dần dần  nhường chỗ  cho nền  nông  nghiệp  hóa học  hóa muộn hơn, đặc biệt là từ khi nước ta được mở cửa nhìn ra thế giới, đó là những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. 

2. Ưu và nhược điểm của nông nghiệp hữu cơ là gì? 

2.1- Ưu điểm của nông nghiệp hữu cơ

Ưu việt của nền nông nghiệp hữu cơlà các loại vật tư  sử  dụng cho trồng trọt, chăn nuôi đều xuất phát từ thiên nhiên, l ấy của thiên nhiên rồi trả  l ại cho thiên nhiên nên sản phẩm làm ra rất an toàn cho người và gia súc cũng như  môi trường sống. Chất lượng sản phẩm lại có mùi vị  ngon hơn, bảo quản dễ  dàng và lâu hơn, mẫu mã cũng đẹp mắt hơn, phù hợp với thị  hiếu của người tiêu dùng rộng rãi hiện nay. 

Các loại phân bón chủ  yếu từ  nguồn hữu cơ  là các phế  phụ  phẩm nông nghiệp, các rác thải sinh hoạt, các loại phân xanh, bùn ao, các lo ại chất thải của gia súc, gia cầm đều có chứa hàm lượng hữu cơ  cao, tỷ  lệ  các chất dinh dưỡng tuy thấp nhưng khá cân đối nên khi sử dụng lâu ngày có thể  làm cải thiện cấu trúc của đất, cải thiện độ phì nhiêu của đất làm cho đất trồng trọt được bảo vệ  tốt hơn. Đất và nước không bị  ô nhiễm các kim loại năng, hay dư thừa đạm nitrat (N03-). Không làm  ảnh hưởng đến khu hệ  vi sinh vật đất cũng như  các động vật hay côn trùng có lợi. Vì vậy, đất thực sự  được gọi là m ột vật thể  sống để  đảm bảo có một nền nông nghiệp bền vững. 

2.2- Những bất cập của nông nghiệp hữu cơ

Cây trồng muốn có năng suất cao, ngoài yếu tố  khí hậu, thời ti ết, cần được cung cấp đầy đủ, đúng chủng loại và và đúng lúc các chất dinh dưỡng (các loại khoáng). Nếu thiếu hay thừa một chất nào đó thì đều có ảnh hưởng đến sức khỏe và năng suất của cây (Achim Dobermann, 2000). 

Ngày nay các nước có hoạt động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế của họ đều sử dụng các giống mang gen di truyền cho năng suất cao đều có nhu cầu sử  dụng lượng chất dinh dưỡng khá cao và thời gian đòi hỏi được cung cấp dinh dưỡng giữa các thời kỳ  sinh trưởng rất gần nhau, do đó càng cần có các loại phân chứa hàm lượng dinh dưỡng cao. 

Ví dụ, m ột ruộng lúa ngắn ngày, thấp cây để  đạt được mức bình quân năng suất 5-6 tấn thóc khô/ha, thường phải bón thêm m ột lượng phân khoáng hay phối hợp với phân hữu cơ tương đương từ 80-120 kg N+ 30-60 kg P205+ 20-70 kg K20/ha (tính chung cho nhiều loại đất). Đối với ngô để  có năng suất 5-6 tấn ngô hạt cũng cần cung cấp khoảng 120-160 kgN + 50-90 kg P205+ 90-120 kg K20/ha. Với cà phê
để có năng suất cà phê nhân bình quân đạt 3,5-4 tấn cần cung cấp khoảng 300-360 kg N+ 90-120 kg P205+ 250-360 kg K20/ha (Trương Hồng, 1999). 

Với cây tiêu số  liệu  này còn cao hơn nhiều (Đỗ Trung Bình, 2012).Trong lúc đó nguyên liệu đầu vào của ác loại phân chuồng (lợn, bò, gà) thì  hàm  lượng N trung  bình  với phân  lợn (heo) khoảng 0,7-1% N, 0,2-,3% P205  và 0,5-0,7% K20. Phân bò có chứa khoảng 0,4%-0,6N, 0,1-0,2% P205  và 0,4-0,6% K20 A.Dobermann, 2000, tính theo trọng  lượng tươi). Với phân gà  hàm  lượng  các chất này  có cao hơn nhưng số  lượng thường ít. Còn trong rơm rạ  lúa chỉ  chứa khoảng: 0,4%N, 0,2% P205  và 2,1% K20 (Lê văn Căn, 1978,  tính  theo  chất  khô).  Với  hàm  lượng  dinh  dưỡng  trong  phân  và  rơm  rạ  như  vậy, nhưng không phải số  lượng dinh dưỡng này bón vào đất là có thể  cung cấp cho cây ngay mà tỷ  lệ  sử dụng cho cây rất thấp và rất chậm (khoảng 20-30%). Vì vậy người ta phải bón số  lượng nhiều, nếu  bón  ít  thì không  đủ  dinh  dưỡng.  

Trường  hợp  lúa  hè  thu  trồng  trên  đất  sông  Hồng  ở  Bắc Giang, 6 vụ  liên tục từ 1996-2001, bón nền phân khoáng 90N + 60P205 + 90 K20 + 200 kg Ca0 + 40 kg Mg 0  + 33 kg S/ha và nếu hàng năm bón bổ  sung 10 tấn phân chuồng, bình quân 6 vụ  cho năng suất 4,60 tấn. Nhưng cũng bổ sung 10 tấn phân chuồng mà không bón N thì bình quân năng suất chỉ có 3,34 tấn/ha, giảm 27,43% năng suất so với nền có bón N (90N). Công thức có bón bổsung 10 tấn phân chuồng sau 6 năm, năng suất tăng hơn năm đầu là 68%. Còn nếu hàng năm vẫn bón bổ  sung 10 tấn phân chuồng nhưng không bón đạm thì sau 6 năm năng suất chỉ  tăng hơn năm đầu có 43%, hay kém hơn nền có bón 90N là 34,5%. (Nguyễn Văn Bộ  và CTV, 2001). 

Nhưvậy, muốn có năng suất cao phải cần bón lượng phân chuồng nhiều hơn mức 20 tấn/ha. Đó là điều rất trở  ngại. Trong thực tế  nghề  trồng rau  ở  Việt Nam,  lượng phân  hửu cơ  bón khá  cao, nhưng vẫn chỉ  dùng làm nền, nông dân vẫn phải bón lượng N, P, K khá cao. Ví dụ, với cây cà chua,  ngoài khuyến cáo bón 30-35 tấn phân  chuồng/ha còn  bón 100-130kg  N, 80-100 P205  và 100-120 K20/ha. (Phương Anh và người khác, 1996). Đã có thí nghiệm bón phân hữu cơ, liều 20 tấn/ha cho lúa so sánh với nền bón 100% là phân hóa học và nền 50% phân hóa học phối hợp với 50% phân chuồng thì cho thấy công  thức bón 50% phân hóa học với 50% dinh dưỡng từ  phân chuồng cho năng suất tương đương với nền bón 100% phân hóa học, nền bón 100% phân chuồng (20 tấn/ha) cho năng suất thấp nhất. (Kỷ  yếu khoa học, Viện KHNNVN, Hà Nội, 1968). Một số mô hình nông nghiệp hữu  cơ làm trên rau  ở  Miền Bắc, ngay vụ  đầu đã cho năng suất cao, thực chất có đóng góp rất l ớn của hiệu lực tồn dư do nhiều năm bón phân hóa học số  lượng nhiều tích lũy lại. 

Một trong số nhược điểm khác là canh tác nông nghiệp hữu cơ khá tốn lao động sử dụng vào công làm cỏ, bón phân, chăm sóc, hơn nữa lượng chất hữu cơ  chế  biến phân bằng thủ  công vẫn còn có hạn. Ví dụ, phải cần đến số  lượng rơm rạ  khoảng 4-5 ha lúa để  có thể  chế  ra được 20-30 tấn phân ủ  với phân gia súc  ruộng lúa đạt 5 tấn thóc cho khoảng 5 tấn rơm rạ). Nếu bón liều 25-30 tấn phân hữu cơ/ha công lao động dành cho chế  biến và mang vác ra ruộng sẽ  tốn nhiều hơn sử  dụng phân hóa học. Muốn tinh giảm  lao động phải có công nghệ  chế  biến phân hữu cơ  sinh học hay hữu cơ  vi sinh công nghiệp với quy  mô lớn. Đã có thí nghiệm gần đây thực hiện trên cây hồ  tiêu, sử  dụng nền 100 kg N+ 150 Kg P205+ 225 kg K20, phối hợp với 20 tấn phân bò so với bón bổsung 3-4 tấn phân hữu cơ  vi sinh thì năng suất tiêu thu được giữa 2 nền ngang nhau (ĐỗTrung Bình, 2012). 

Nước ta đã có lúc đầu tư nhà máy chế  biến rác thải khá quy mô  ở Thành phốHồ  Chí Minh, hợp tác với Đan Mạch, xây dựng  ở  Hóc Môn, sau vài năm vận hành đã phải đóng cửa, lý do chính là giá thành cao, khách hàng không chấp nhận. Chính vì vậy dù nhiều thành phố đã từng xây dựng dự  án xây dựng nhà máy chế  biến rác thải nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cấp bách của dân sinh, tuy nhiên hầu hết các thành phố  lớn hiện  nay vẫn áp dụng quy trình chôn rác là chủ  yếu. 

3. Ưu và nhược của phân hóa học 

3.1-Ưu điểm

Do nhiều loại phân hóa học có chứa hàm lượng dinh dưỡng rất cao, và có đặc tính tan nhanh vào môi trường sau khi bón, nên cây trồng được bón phân hóa học thường sinh trưởng nhanh và cho năng suất cao, số lượng bón ít nên giảm được công lao động. Ngày nay công nghệ  chế  phân trộn và phân phức hợp ra đời, phân l ại chứa đủ  các thành phần dinh dưỡng cần thiết cho cây nên đã đơn giản hóa việc bón phân cho người sử  dụng. Nhờ  có phân hóa học mà năng suất cũng như sản lượng mọi loại cây trồng trên thế  giới đều tăng rất cao so  với canh tác theo gói nông nghiệp hữu cơ cổ truyền. 

Từ khi có cuộc cách mạng hóa học trong nông nghiệp, nhiều nước trên thế giới đã thoát khỏi nạn thiếu lương thực, thực phẩm triền miên, nay nhiều nước đã có dư  thừa lương thực và thực phẩm bán ra trên thế giới. 

3.2- Nhược điểm của phân hóa học

Do trình  độ  nhận thức  về  tác dụng  của phân  hóa học còn  bị  hạn  chế  và do tính tác dụng nhanh và tạo ra màu xanh đẹp mắt của phân đạm mà khuynh hướng lạm dụng phân đạm trở  nên phổ  biến nên dẫn đến tác hại bón quá nhiều, quá mất cân đối, đã làm tăng  khả  năng hấp dẫn sâu bệnh đến phá hại cây trồng, do đó vừa làm cho việc sử  dụng thuốc hóa học trên đồng ruộng gia tăng, dẫn đến tốn nhiều chi phí, giết hại nhiều thiên địch, làm cho hệ  sinh thái côn trùng bị  phá vỡ  vừa làm cho nông sản kém an toàn, sức khỏe của người và gia súc bị  suy giảm và môi trường dễ  bị  ô nhiễm.  

Một số trường hợp lạm dụng phân hóa học và không chú ý kết hợp bón chất hữu cơ  lâu ngày đã gây cho môi trường đất có xu hướng bị  suy thoái (chất hữu cơ  bị  giảm, kết cấu đất rời rạc hơn, đất có xu hướng chua thêm, một số  chất dinh dưỡng bị  cạn kiệt, hệ  vi sinh vật có lợi bị   suy giảm, ngược lại các vi sinh vật gây hại có xu hướng gia tăng). 

Tuy nhiên, khi nhận biết được ưu và nhược điểm của phân hóa học thì chúng ta hoàn toàn có thể  có biện pháp khắc phục để  sử  dụng phân hóa học một cách hài hòa nhằm giảm thiểu những nhược điểm của nó đồng thời phát huy được tính ưu việt để  phục vụ  nền nông nghiệp được phát tri ển bền vững. Để  thực hiện được mục triêu này,  trước hết con người không nên có ý thức phủ định vai trò của phân hóa học trong nền nông nghiệp hiện đại, không nên quay lưng lại với phân hóa học và cũng không nên có thái độ  bài xích phân hóa học, một loại vật tư  mà trong hơn nửa thế  kỷ  vừa qua đã có công góp phần cứu  nhân  loại thoát khỏi nạn đói kém. Mặt khác ta cũng không nên có thái độ  một chiều, thái độ quá tả, chỉ nhìn thấy mặt ưu việt của nông nghiệp hữu cơ mà không thấy được mặt hạn chế của nó. 

SỰ LỰA CHỌN 

Dựa trên ưu và nhược của nông nghiệp hữu  cơ và nông nghiệp hóa học đã nêu, câu hỏi đặt ra trong hoàn cảnh cụ  thể  của Việt Nam hiện nay và cả  trong tương lai thì nên theo con  đường NÔNG NGHIỆP HỮU CƠ  hay HỮU CƠ  HÓA  NÔNG NGHIỆP. Và nếu sản  xuất theo nông nghiệp hữu cơ thì nên thực hiện đến mức nào, trên đối tượng nào và cho thị   trường nào, câu trả lời là: thực hiện cả  nông nghiệp hữu cơ và NNHH, nhưng  cần thực hiện HỮU CƠ  HÓA NÔNG NGHIỆP 

1. Tại sao chúng ta cần áp dụng sản xuất theo nông nghiệp hữu cơ? 

Xét tính ưu việt của nông nghiệp hữu cơ và nhu cầu của khách hàng trên thị   trường thì nước ta cũng cần tham gia sản xuất theo nông nghiệp hữu cơ, nhưng do những hạn chế  như đã nêu, trong lúc Việt Nam còn phải dựa vào nông nghiệp để  đi lên và cũng nhờ  vào nông nghiệp để  tồn tại. Nông dân đang sống chủ  yếu vào nông nghiệp, họ  vừa cần có năng suất cao, vừa có giá bán hợp lý, trong lúc diện tích canh tác rất ít  ỏi, chưa nói đến nông nghiệp hữu cơ, những nhà nông sản xuất rau sạch, giá thành cao, bán không có lời bằng sản xuất theo nông nghiệp hóa học, vì vậy họ chưa mặn mà với nên nông nghiệp hữu cơ (vì chưa có thị  trường hấp dẫn). Do đó, ở nước ta vẫn cần khuyến khích áp dụng gói nông nghiệp hữu cơ, nhưng đối tượng áp dụng có thể  chỉ nên giới hạn với các cây trồng sau: 

1.1-  Về  trồng trọt, thực hiện trên  những cây rau ăn lá, rau ăn quả  tươi, rau gia vị , cây làm thuốc. Những loại cây này nông dân trồng trên diện tích nhỏ, có thể có đủ phân bón hữu cơ để sử dụng với số  lượng đủ để  đạt được năng suất cao  ở  mức chấp nhận được và cũng dễ  khống chế sâu bệnh, dị ch hại hơn. Mặt khác đây là loại sản phẩm ăn tươi nếu bị  ô nhiễm thì người tiêu dùng dễ  bị  ngộ độc hơn. Trên cơ sở  những cây đã nêu, có thể  mở rộng đến các cây làm thức uống nhưcác loại chè, cây ăn quả  dễ  bị  sâu bệnh phá hại như  nho, dâu tây hay một số  cây ăn quả  khác tùy điều kiện cụ thể. 

1.2- Về chăn nuôi áp dụng cho các loại gia cầm, thủy cầm. 

1.3- Về thủy sản: Tùy khả  năng và yêu cầu của khách hàng để quyết định. 

2. Tại sao phải tiếp tục phát triển nền nền nông nghiệp hóa học nhưng cần HỮU CƠ HÓA NÔNG NGHIỆP 

Đây là loại kỹ  thuật cần được mở  rộng và chiếm diện tích lớn nhất, lý do chính là thế  giới đang  có  nhu  cầu  sản  phẩm  từ  kỹ  thuật thực  hành  nông  nghiệp  tốt theo tiêu  chuẩn  GAP.  Tiêu chuẩn  GAP  không  cấm  sử  dụng  các  sản  phẩm  có  nguồn  gốc  hóa  học  mà  sử  dụng  tiêu  chuẩn khống chế các tồn dư của hóa chất ở giới hạn tối thiểu (MRL). Với tiêu chuẩn này trọng 6-7 năm vừa qua, nước ta đã tạo được nhiều mô hình từ  rau, quả  cho đến thóc gạo, các sản phẩm từ  cây công nghiệp và đã  được chứng nhận đạt tiêu chuẩn  VietGAP hay GlobalGAP. Thực tế  từ  1989 cho đến nay, Việt Nam xuất khẩu hơn 140 triệu tấn gạo chỉ  có một m ẻ khoảng vài chục ngàn tấn bị  xem xét vì chất Acetamiprid vượt quá 0,1 ppm hay chất Orysastrobin vượt quá 0,2 ppm, còn lại  đều  được  khách  hàng  đón  nhận  (Mai  Văn  Quy ền,  2009).  Với  m ột  số  sản  phẩm  khác  như thanh long có bị  trục trặc hoặc do chiếu xạ  chưa đạt, hoặc do ruồi đục hay mẫu mã chưa đạt nên bị  từ chối. 

Về thủy sản: có một số trường hợp dư  lượng kháng sinh cao, dư  lượng chất bảo quản cao là chủyếu  do công đoạn chế  biến, bảo quản chứ  không phải do công đoạn sản xuất tạo ra. Các sản phẩm tiêu thụ  nội địa như  một số  rau ăn lá bao gồm cải bẹ, cải ngọt, rau muống có bị  ô nhiễm thuốc sâu và cũng có gây ngộ  độc cho người tiêu dùng. Phần lớn ngộ  độc thực phẩm do nhiều nguyên nhân khác mang lại như để  thực phẩm bị  ôi, thối, thực phẩm đã bị  lên men hay quá hạn dùng mà vẫn tiếp tục sử  dụng. Các vụng  ộ  độc ở  các bữa tiệc hay nhà ăn tập thể  phần lớn xảy ra do thức ăn không bảo đảm vệ  sinh chứ  không phải do công  đoạn từ trồng trọt mang lại mà nhiều vụng ộ độc là do công đoạn chế  biến và bảo quản gây ra. 

Về  môi trường đất:  nghiên cứu của Nguyễn Đức Thuận và cộng sự  (2009)  ở  huyện Tháp Mười, Đồng Tháp trên đất trồng lúa 2 vụ  không có đê bao, 3 vụ  có đê bao hở  và 3  vụ  có đê bao kín,sử  dụng lượng phân hóa học liều cao, kết hợp phun thuốc trừ  sâu theo kỹ  thuật của nông dân thì  đều thấy  về  thành phần  nông  hóa trong đất có xu hướng gia tăng,  hàm  lượng  hữu cơ  tăng trong lúc đó năng suất lúa vẫn tăng đều (Nguyễn Đức Thuận  và cộng sự  2009). 

Một nghiên cứu khác trên đất cà phê của Viện Nghiên cứu Nông Lâm nghiệp Tây nguyên, sau 30 năm trồng cà phê liên tục, đất hàng năm được vùi thêm tồn dư thực vật, bón phân khoáng liều cao, liên tục, thì thành phần nông hóa đều tăng dần, hàm lượng chất hữu cơ  cũng tăng dần, đồng thời hàm lượng S dễ  tiêu tăng lên do bón liên tục phân có chứa S cao nhiều năm mang lại, ngược lại, hàm lượng Ca trao đổi bị   giảm sút (Tôn Nữ  Tuấn Nam, 2013). Đứng trên phạm vi vĩ  mô để  xem xét thì một số  đất dốc, đất xám do chế  độ  canh tác theo kiểu bóc lột đất và thi ếu biện pháp chống xói mòn đất thì  ở  đấy có hiện tượng đất bị   suy thoái. Còn tuyệt đại đa số  các vùng đất có độ  dốc thấp dùng trồng cà phê, cao su, tiêu hay cây lương thực, thực phẩm thì môi trường  đất sau nhiều năm dùng phân hóa học vẫn được bảo vệ  tốt, chỉ   cần đất được bón bổ  sung phân hữu cơ  hay ít ra là vùi lại cho đất m ột số  tàn dư  thực vật (Trương Hồng, 2013, Tôn nữ  Tuấn Nam, 2013). Với đất lúa ngập nước chỉ  cần để  lại gốc rạ  hay thậm chí thu hết rạ  thì hàm lượng hữu cơ  vẫn không bịsuy giảm, kể cả thí nghiệm lấy hết rạ ra khỏi ruộng sau 25 năm, (150 vụ) (Buresh và ctv, 2012). 

Ngày  nay các công ty đưa công  nghệ  chế  biến  NPK có chứa đầy đủ  các chất trung và  vi lượng, bón liều vừa phải, có bổ  sung phân hữu cơ đã hạn chế  hoặc làm mất hẳn tình trạng bón phân hóa học mất cân đối hay liều cao, và vừa mang lại năng suất cao, chất lượng nông sản an toàn, đạt tiêu chuẩn GAP. Các loại phân NPK của Đầu Trâu đều đạt được tiêu chuẩn như  vậy, do đó phân NPK Đầu Trâu được Cục Trồng trọt, BộNN& PTNT khuyến cáo sử  dụng cho các loại cánh đồng mẫu lớn (Mai Văn Quyền, 2013).

LỜI KẾT 

1  Cần áp dụng nông nghiệp hữu cơ vì tính chất ưu việt của nó, thể  hiện  ở  chất lượng  sản phẩm và độ  an toàn của môi trường sống, tuy nhiên do khách hàng còn hạn chế  nên cần có bước đi vững chắc. 

2 Cần tiếp tục thực hiện nền nông nghiệp hóa học, vì thực trạng nông dân Việt Nam có bình quân diện tích quá nhỏ, thực hiện nông nghiệp hóa học sẽ dễ có năng suất cao. Nhưng cần hữu cơ  hóa nông nghiệp là để khuyến khích nhà nông tận dụng các loại phân hữu cơ  bón cho cây. Khi lượng phân hữu cơ  tăng thì góp phần giảm thiểu lượng phân hóa học, giảm thi ểu tình trạng sử dụng thuốc hóa học sẽ giảm nguy cơ độc hại cho người, gia súc và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đồng thời bảo đảm độ phì của đất được ổn định. 

Sản xuất nông nghiệp đạt tiêu chuẩn VietGAP hay GlobalGAP là nhu cầu của khách  hàng rộng rãi cả  trong nước  và trên thế  giới.  Có khách  hàng t ức sẽ  có thị   trường, sản phẩm sẽ  bán được giá, trong đó với tiêu chuẩn GAP thì nông dân Việt Nam đã có nhiều mô hình và khả  năng tổ  chức sản xuất có phần dễ  thực hiện hơn nhiều so với nông nghiệp hữu cơ. Vì vậy, hướng đi này sẽ  làm cho nông nghiệp hữu cơ  và hữu cơ hóa nông nghiệp được song song tồn tại, phát triển và sẽ  là hướng đi dễ áp dụng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Mai Thị  Phương Anh, Trần Văn Lài, Trần khắc Thi, 1996. Rau và trồng rau, giáo trình cao học, Nhà xuất bản Nông nghiệp, trang 164-176. 
2.  Achim  Dobermann  and  Thomas  Fairhurst,  2000.  Rice  nutrient  Disorders  &  Nutrient management, IRRI, P32-37 
3. Đỗ  Trung Bình,2012. Những biện pháp kỹ  thuật tổng hợp trong sản xuất cây tiêu theo  hướng bền vững, báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ, trang 79-82. 
4. Nguyen Van Bo, Ernst Mutert, Cong Doan Sat, 2003. Balcrop Balanced fertilization for better crops in Vietnam, Printed by Oxford Graphic printers, P 83-87. 
5. Lê Văn Căn, 1978. Sổ tay phân bón, Nhà xuất bản Giải phóng, trang 13. 
6. Trương Hồng, 1999. Luận án tiến sĩ   Nông nghiệp, trang 119. 
7.  Mai  Văn  Quyền,  2009.  Những  điều  cần  biết  về  trồng  lúa  xuất  khẩu,  Nhà  xuất  bản  Nông nghiệp, trang 23-30. 
8.  Lê  Văn  Hưng,  2013,  Lịch  sử  nông  nghiệp  hữu  cơ,  trong www.google.com/searh/9=lich+sử+Phát+triển+nông+nghiệp+hữu+cơ. Ecomart.vn/home 
9. Tôn Nữ  Tuấn Nam, 2013. Kết quảnghiên cứu đất trồng cà phê  ở  Tây Nguyên, báo cáo tổng 
kết, lưu hành nội bộ. 
10. Mai Văn Quyền, 2013. Phân Đầu Trâu, bón ít hiệu quả  cao, trong Hội thảo về  nâng  cao hiệu quả quản lý và sử dụng phân bón tại Việt Nam, NXBNN, trang 465-470. 
9. Thomas Diorff, Thomas Fairhurst and Ernst Mutert, 2001. Soil fertility Kit, P 56. 
10. Nguyễn Đức Thận,2009. Báo cáo tổng kết đề tài” Nghiên cứu đánh giá tác động của canh tác nhiều vụ  lúa trong năm đến năng suất, hiệu quả kinh tế, tính chất đất và tính bền vững của sản xuất lúa vùng đất phèn Đồng Tháp Mười (2006-2008), trang 28-33 

GS. TS. Mai Văn Quyền 
Chủ tịch HĐTVKH, Cty CP Phân bón Bình  Điền 
Read more ...

Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)


IPM - (Intergrate Pest Managerment ) là quản lý dịch hại tổng hợp hay nói cách khác là sử dụng các biện pháp tổng hợp để quản lý dịch hại cây trồng, trên cơ sở sinh thái học sẽ làm tăng năng suất, cải thiện chất lượng nông sản phẩm, bảo vệ môi trường, và giảm chi phí đầu tư. 

Quản lý dịch hại tổng hợp là một hệ thống điều khiển dịch hại bằng cách sử dụng hài hòa những biện pháp kỹ thuật như biện pháp sinh học, hóa học một cách thích hợp, trên cơ sở phân tích hệ sinh thái đồng ruộng một cách hợp lý để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất và an toàn nhất. IPM đối với mỗi cây trồng có những đặc thù riêng.

3 biện pháp cơ bản trong IPM đối với cây hồ tiêu. (Piper nigrum Linneaus).

1- Biện pháp sinh học:
Con người đã tác động đến môi trường sinh thái bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho thiên địch (côn trùng có ích) phát triển và thiên địch sẽ tấn công sâu hại. Sự đấu tranh tự nhiên này làm cân bằng sinh thái trong thiên nhiên. Ví dụ hạn chế phun thuốc sâu sẽ giữ được tắc kè, chuồn chuồn, bọ ngựa, kiến vàng, bọ rùa, nhện là những loài chuyên ăn rệp hại trên cây tiêu, nhất là rệp sáp. Không cần phun thuốc hóa học mà vẫn tiêu diệt rệp sáp, xét về mặt hiệu quả kinh tế lợi hơn nhiều. Rệp, rệp sáp trên vườn tiêu sẽ bị các thiên địch tiêu diệt nếu chúng ta không xua đuổi và bắt hay tiêu diệt thiên địch.

2- Biện pháp kỹ thuật:

a) Chọn giống tiêu tốt: 


Chọn những giống tiêu có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt. Hiện có rất nhiều giống tiêu đang trồng tại Việt Nam, tuy nhiên tại vùng này có thể phát triển tốt, kháng bệnh khá nhưng vùng khác có thể kháng bệnh kém. Do vậy tùy mỗi địa phương có thể chọn những giống phù hợp nhất để trồng. Ví dụ: Giống Lada Belangtoeng nguồn gốc từ Indonesia có lá to xanh đậm du nhập vào Việt Nam từ những năm 50 thế kỷ trước, giống này dễ trồng, cho năng suất khá cao, leo mau, dây lá rất xanh tốt. Tại bà rịa vũng tàu giống này kháng bệnh thối rễ khá, nhưng đưa lên trồng tại Tây nguyên do mùa mưa tập trung ẩm quá cao nên kháng bệnh rễ lại kém.

- Giống Pannijur-1 nguồn gốc Ấn độ, được nhập nội Việt Nam từ 1989, chín sớm, chín khá đồng đều, năng suất cao, kháng bệnh tốt tại Bà rịa nhưng tại Bình phước giống này kháng bệnh chỉ ở mức trung bình.

b) Nhân giống: 

- Chỉ cắt cành ương từ các vườn không  nhiễm sâu bệnh, những vườn có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh khá và có nhiều đặc tính tốt.

- Các cây mẹ để cắt cành ươm phải là những cây tốt nhất, được chọn lọc trong vườn cây tốt (trong một vườn tốt vẫn có những cây chưa tốt hoặc không đạt yêu cầu làm giống).

- Độ tuổi cây mẹ: Chỉ nên cắt cành ươm từ những cây mẹ từ 3-4 năm tuổi, nên dùng các cành thân chính để ươm giống (không dùng cành ác làm hom giống). 

- Giâm cành ươm vào bầu Nylon đục 8 lỗ, trước khi dâm hom vào bầu xử lý hom bằng Bordeaux 1%, Aliette 0,2-0,%, hay Rovral 0,2-0,3% .Xử lý nấm bệnh ngay từ khi ương bầu. Nếu xử lý và chọn lọc hạn chế nguồn bệnh ngay từ khi nhân giống sẽ hạn chế một phần dịch bệnh sau này.

Nhân được các giống tốt sạch bệnh là một trong những yếu tố thành công cho quản lý dịch hại tổng hợp sau này.

c) Thiết kế và chăm sóc vườn cây:
Vườn tiêu tồn tại hàng chục năm, do vậy cần thiết kế khoa học và hợp lý ngay từ đầu, đảm bảo mật độ vừa phải, tùy theo khả năng đầu tư của mỗi gia đình (không nhiều phân hữu cơ, vô cơ bón hàng năm nên trồng thưa hơn nhưng vẫn đảm bảo 20kg phân chuồng, 0,5 kg vôi, 0,5kg lân/gốc và NPK theo quy trình kỹ thuật).

-Miền Nam có lượng mưa khá lớn và tập trung vào các tháng cuối mùa mưa, do vậy độ ẩm không khí và đất rất cao, tiểu khí hậu đồng ruộng khá ẩm ướt nên cần trồng mật độ thích hợp để không che cớm lẫn nhau, dễ bị nhiễm các bệnh trên thân lá.

- Nọc sống: Có thể bố trí mật độ khoảng cách  2,5 x 2,5 hoặc 3 x 3 m ( 1.600 - 1.200 gốc/ha).

- Nọc betong: Có thể bố trí khoảng cách mật độ 2,5 x 2,5 m hoặc  (1.600 gốc,/ha). 

- Cây nọc chết bằng gỗ không được khuyến cáo sử dụng để tránh nạn phá rừng và nấm bệnh.

- Cây nọc sống - trong vườn tiêu người ta hạn chế tối đa việc dùng cây Anh đào, Lồng mức, bình linh dùng làm cây nọc sống vì những cây này là môi trường tốt đê rệp sáp sinh sôi, nó là ký chủ của rệp sáp hại tiêu. Có thể dùng rất nhiều cây để làm nọc sống tùy mỗi địa phương như cây  keo rừng, cóc rừng…Nên thiết kế hàng cây theo hướng Đông –Tây để tận dụng nhiều ánh sáng mặt trời nhất.

d) Xen canh:

Vườn trồng tiêu nọc chết được xen canh cà phê, sầu riêng. bơ...và thường trồng trên bìa lô xung quanh vườn  sẽ tạo hàng rào che chắn gió. Nó còn có tác dụng che bớt ánh sáng bức xạ trực tiếp, tạo môi trường sinh thái hài hòa và tạo thêm thu nhập.

3- Biện pháp hóa học:


Đây là biện pháp cuối cùng khi phải bảo vệ cây trồng khỏi dịch hại tấn công mà các biện pháp trên không có hiệu quả và dịch hại phát triển quá ngưỡng kinh tế cho phép. Tuy nhiên sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) phải ưu tiên thuốc sinh học không độc hại cho môi trường và nông sản, sau đó mới đến thuốc hóa học. Thuốc hóa học phải ưu tiên sử dụng loại thuốc ít độc hại cho môi trường, thuốc ít tồn tại trong nông sản và mau phân hủy. Khi sử dụng thuốc hóa học BVTV phải tuân thủ nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng liều lượng nồng độ, đúng lúc, đúng cách ).

- Đúng thuốc: Chọn loại thuốc phù hợp ghi trên nhãn bao bì, đúng đối tượng dịch hại.

- Đúng liều lượng nồng độ: không pha nồng độ cao lãng phí và độc hại, không pha quá loãng không diệt được sâu bệnh lại phai phun thêm lần sau. Pha thuốc theo hướng dẫn trên bao bì của thuốv BVTV.

- Đúng lúc: Phun thuốc đúng thời điểm sâu còn non dễ tiêu diệt. Phun thuốc khi mới nhiễm bệnh sẽ dễ trị bệnh hơn khi đã quá nặng.

- Đúng cách: Loại rệp ẩn mặt dưới của lá thì phải phun mặt dưới, tuyến trùng hại rễ hồ tiêu thì phải tưới thuốc vào rễ, bệnh đốm lá phải phun thuốc mặt trên của lá…Riêng đốm lá do nấm Rosellina sp, mặt dưới lá bị bệnh có các vết nâu rải rác và tập trung ở bìa lá nặng thì toàn lá héo vàng, có thê dùng Carbenzim 500FL hoặc Topsin M70WP (10cc/bình 8 lít phun đẫm) nên phải phun thuốc vào mặt dưới lá mới có tác dụng.

- Dùng loại thuốc trong danh mục cho phép của Bộ NN&PTNT 

IPM không phải là một quy trình kỹ thuật cụ thể, mỗi nơi mỗi cây trồng có những đặc thù riêng nên cần áp dụng phù hợp mới mang lại hiệu quả cao.


VPA
Read more ...

Wednesday, January 8, 2014

Dinh dưỡng hiệu quả cho tiêu sạch


Ở nước ta, nhiều nơi sản xuất tiêu bón phân vượt từ 4 - 5 lần khuyến cáo, gây tốn kém, độc hại và dẫn đến ô nhiễm môi trường.Trong khi, theo khuyến cáo của các nhà khoa học thì lượng phân vô cơ bón cho 1ha tiêu để đạt năng suất cao nhất và hiệu quả kinh tế là từ 200 – 400kg N, 100 – 200kg P2O5, 225 – 400kg K2O trong mỗi năm, tùy theo chân đất và loại trụ trồng tiêu. 

Việc bón bổ sung phân hữu cơ hoặc phân bón lá đã cung cấp thêm một lượng dinh dưỡng khoáng đa lượng, trung và vi lượng cho cây tiêu. Phân gà và phân hữu cơ chế biến có tác dụng tốt trong phòng trừ bệnh chết nhanh do nấm Phytophthora capsici.Sản xuất hồ tiêu hữu cơ không áp dụng phân bón, cũng như không sử dụng thuốc trừ sâu bệnh hóa học. Người sản xuất cần có kỹ thuật cao như biết trồng xen hồ tiêu với các cây phân xanh, hoặc cây họ đậu tạo điều kiện cung cấp các chất dinh dưỡng kết hợp có hiệu quả. 


Ngoài ra, nông dân cần tận dụng vật chất nông nghiệp phế thải như cành lá cây, phụ phẩm cây trồng, cỏ dại, phân gia súc gia cầm có sẵn trong nông hộ hoặc tại địa phương để chế biến thành phân trộn hữu cơ theo đúng kỹ thuật bón cho cây tiêu nhằm tăng cường độ phì nhiêu trong đất. 


Hiện nay, việc sản xuất hồ tiêu theo hướng hữu cơ còn mới mẻ và chưa có quy trình khuyến cáo mức phân bón và loại phân bón hữu cơ cụ thể như sản xuất thông thường. Một số tài liệu khoa học tin cậy khuyến cáo áp dụng phân bón trong sản xuất hồ tiêu với lượng 5 - 10kg phân chuồng cộng với 5 - 10kg phân trộn hữu cơ cho một trụ tiêu căn cứ vào độ tuổi cây tiêu mà bón nhiều hoặc ít. Cung cấp chất lân (P) bằng bón quặng photphat hoặc bột xương hay bón tro gỗ nhằm cung cấp bổ sung chất lân (photphorus) và kali (potassium) cho cây tiêu. Đất phèn tăng cường bón vôi. 


Khi cây tiêu biểu hiện thiếu các yếu tố dinh dưỡng vi lượng dẫn đến giảm năng suất, ở các nước sản xuất hồ tiêu hữu cơ như Ấn Độ, khuyến cáo có thể sử dụng hạn chế một lượng phân hóa học hoặc phân khoáng dinh dưỡng vi lượng và phân magiê sunfat trong tiêu chuẩn đã được cho phép bởi một cơ quan cấp chứng nhận hữu cơ. Đồng thời bón bổ sung bánh dầu (như bánh neem, 1kg/trụ), phân trộn xơ dừa (2,5kg/trụ) hoặc phân trộn vỏ cà phê giàu chất kali, giúp nuôi dưỡng vi khuẩn Azospirillum và vi khuẩn hòa tan lân nhằm cải thiện độ màu mỡ của đất trồng tiêu.  Ngoài ra, sản xuất hồ tiêu hữu cơ chỉ cho phép áp dụng thuốc trừ sâu bệnh sinh học phối hợp với các biện pháp canh tác và vệ sinh đồng ruộng trong việc phòng trừ sâu bệnh cho cây tiêu.


TS Nguyễn Công Thành (Danviet.vn)
Read more ...

Vài hình ảnh về vườn tiêu ở khu vực Sông Ray - Long Khánh

Tác giả, chú Hoàng (BRVT), Chú Lịch (Sông Ray), chú Châu (BRVT)

Vừa qua công ty Rainbow có tổ chức hội thảo giới thiệu sản phẩm phân vi sinh Cầu Vồng 3 kết hợp với phương pháp canh tác chăm sóc đã được áp dụng thành công ở khu vực BRVT. Chúng tôi đã tiếp nhận được rất nhiều những câu hỏi và phần trao đổi mang tính rất "chuyên môn" của một số nông dân có nhiều kinh nghiệm ở đây. Chỉ tiếc là các nông dân ở đây không sử dụng Internet để có thể chia sẻ kinh nghiệm với bà con được, nhưng kiến thức họ tự tích lũy được sao nhiều năm quả thực rất đáng nể.

Nhìn chung thì đất ở khu vực Sông Ray-Long Khánh rất tốt và phù hợp với cây Tiêu nên có trường hợp chỉ bón mỗi NPK mà vườn Tiêu vẫn phát triển rất tốt tuy nhiên hiện tượng rụng bông xảy ra nhiều do cây bị suy kiệt vì thiếu chất trong giai đoạn ra bông. Cũng có vườn Tiêu phát triển rất xanh tốt nhưng lại không có bông nhiều do người nông dân không biết kỹ thuật làm bông trong giai đoạn cây ra bông.

Nhìn chung là đất tốt và phân bón tốt cũng chưa đảm bảo được yếu tố thành công nếu thiếu phương pháp chăm sóc khoa học và phù hợp với thổ nhưỡng từng nơi.

Và dưới đây là một số hình ảnh ghi nhận được trong chuyến thăm và chia sẻ kinh nghiệm với bà con nông dân ở địa phận Sông Ray - Long Khánh.

Chúng tôi sẽ còn quay lại để thu thập kết quả đạt được sau giai đoạn áp dụng thử phương pháp mới kết hợp với sản phẩm phân vi sinh Cầu Vồng 3.


Hình ảnh ườn Tiêu của nhà chú Tuấn

Vườn Tiêu lúc đang giai đoạn ra bông

Vườn Tiêu rất xanh tốt của chú Lịch (Sông Ray)

Hình ảnh một cây bị bệnh chết nhanh


















































































Phi Thường
Read more ...

Kỹ Thuật Trồng Tiêu Công Nghệ Cao



Tiêu có nguồn gốc từ rừng nhiệt đới Ấn Độ. Ngoài việc sử dụng làm gia vị, tiêu còn có giá trị trong y dược, trong hương liệu làm chất trừ côn trùng. Nhu cầu sử dụng tiêu ngày càng gia tăng nên tiêu trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của 1 số nước trên thế giới.
Ở Việt Nam tiêu được đưa vào trồng trước năm 1943. Diện tích tiêu cả nước trên 27.000 ha, trong những năm gần đây giá cả tăng nhanh, kéo theo diện tích tiêu cả nước tăng lên đáng kể, trước năm 2003 Việt Nam là nước xuất khẩu tiêu đứng thứ 2 trên thế giới sau Ấn Độ, từ năm 2003 đến nay Việt Nam đứng đầu thế giới về xuất khẩu tiêu.
I. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC:
1. Rễ: Có 4 loại rễ chính.
1.1 Rễ cọc: Rễ cọc chỉ có khi trồng bằng hạt. Sau khi gieo, phôi hạt phát triển, rễ đâm sâu vào đất, có thể sâu 2-2,5 m, nhiệm vụ chính là giữ cây và hút nước chống hạn cho cây.
1.2 Rễ cái:Rễ cái phát triển từ hom tiêu (nếu trồng bằng hom). Mỗi hom có từ 3-6 rễ, nhiệm vụ chính là hút nước chống hạn cho cây trong mùa khô, sau trồng 1 năm, rễ cái có thể ăn sâu tới 2 m.
1.3 Rễ phụ: Rễ phụ mọc ra từ rễ cái thành từng chùm mang nhiều lông hút, tập trung nhiều ở độ sâu 15-40 cm. Nhiệm vụ chính là hút nước và dưỡng chất để nuôi cây. Đây là loại rễ quan trọng nhất của cây tiêu trong quá trình sinh trưởng và phát triển.
1.4 Rễ bám (rễ khí sinh, rễ thằn lằn):Rễ này mọc từ đốt thân chính hoặc cành của cây tiêu, bám vào nọc (nọc sống, nọc chết, nọc xây…) nhiệm vụ chính là giữ cây bám chắc vào nọc, hấp thụ (thẩm thấu) chỉ là thứ yếu.
Trong hệ rễ, phần ở dưới đất quan trọng hơn phần ở trên không khí. Hệ thống rễ ở tầng đất từ 0-30 cm rất quan trọng, nên tạo điều kiện tầng đất này thuận lợi cho rễ tiêu phát triển.
2. Thân: Tiêu thuộc loại thân bò, là loại thân tăng trưởng nhanh nhất có thể 5-7 cm/ngày.
Cấu tạo thân tiêu gồm nhiều bó mạch libe mộc có kích thước khá lớn, nên có khả năng vận chuyển nước, muối khoáng từ dưới đất lên thân rất mạnh. Do vậy, khi thiếu nước hoặc bị vấn đề gì khác thì cây tiêu héo rất nhanh.
Thân tiêu có màu đỏ nhạt (non) đến nâu xám, nâu xanh, xanh lá cây đậm (lúc cây sung, lá lớn). Khi cây già hóa mộc thì màu nâu sẫm. Nếu không bấm ngọn thì có thể mọc dài tới 10 m.
3- Cành: Có 3 loại cành:
3.1 Cành vượt (cành tược): Mọc ra từ các mầm nách lá ở những cây tiêu nhỏ hơn 1 tuổi, mọc thẳng hợp với thân chính một góc nhỏ hơn 450. Cành này phát triển rất mạnh, nếu dùng làm hom để giâm cành thì cây tiêu ra hoa chậm hơn cành mang trái nhưng tuổi thọ kéo dài hơn (25-30 năm).
3.2 Cành ác (cành mang trái): Là những cành mang trái mọc ra từ các mầm của nách lá ở gần ngọn của thân chính trên những cây tiêu lớn hơn 1 tuổi, góc độ phân cành lớn hơn 450.
Cành này ngắn hơn cành tược, lóng ngắn, khúc khuỷu và thường mọc cành cấp 2, nếu lấy cành này nhân giống thì mau cho trái (nhưng tuổi thọ thấp).
3.3 Dây lươn: Mọc ở gần mặt đất từ những mầm nách lá, mọc dài ra bò trên mặt đất, thân nhỏ, lóng dài làm tiêu hao dinh dưỡng của thân chính và nhánh ác. Trong sản xuất người ta thường cắt bỏ hoặc dùng làm hom giâm cành.
4. Lá: Lá cây tiêu thuộc lá đơn, hình trái tim, mọc cách. Cuống lá dài 2-3cm, phiến lá dài 10-25cm, rộng 5-10cm tùy giống.
Lá là một bộ phận dùng để nhận biết giống, trên phiến lá có 5 gân hình lông chim.
5. Hoa: Hoa mọc thành từng gié (chùm) treo lủng lẳng trên cành. Một gié dài khoảng 7-12cm, trung bình có từ 30-60 hoa trên gié sắp xếp theo hình xoắn ốc, mỗi hoa có một lá bắc nhỏ nhưng rụng rất sớm khó thấy. Hoa tiêu có thể lưỡng tính hoặc đơn tính và co thể đồng chu, dị chu hoặc tạp hoa.
Hoa tiêu không có bao, không có đài, có 3 cánh hoa, 2-4 nhị đực, bao phấn có 2 ngăn, hạt phấn tròn và rất nhỏ, đời sống rất ngắn khoảng 2-3 ngày. Bộ nhụy cái gồm: Bầu noãn có 1 ngăn và chứa 1 túi noãn (tiêu chỉ có 1 hạt).
Từ khi xuất hiện gié đến khi hoa nở đầy đủ khoảng 29-30 ngày. Sự thụ phấn của hoa không phụ thuộc vào gió, mưa hoăc côn trùng mà phấn của hoa trên thụ cho hoa dưới của một gié.
Sự thụ phấn của hoa phụ thuộc rất lớn bởi độ ẩm không khí, độ ẩm đất. Đây là điều cần lưu ý cho việc tưới nước cho vùng trồng tiêu ở miền Đông Nam Bộ.
(Chú ý: Ngoài việc tưới gốc còn phun lên lá để tăng độ ẩm không khí).
6. Trái: Trái tiêu chỉ mang 1 hạt có dạng hình cầu, đường kính 4-8mm (thay đổi tùy giống, điều kiện chăm sóc, sinh thái).
Từ khi hoa nở đến trái chín kéo dài 7-10 tháng, chia ra các giai đoạn:
- Hoa xuất hiện và thụ phấn: 1-1,5 tháng.
- Thụ phấn đến phát triển tối đa: 3-4,5 tháng, đây là giai đoạn cần nhiều nước nhất.
- Trái phát triển tối đa đến chín: 2-3 tháng.
Ở miền Nam trái chín tập trung vào khoảng tháng 1-2 trong năm, có thể kéo dài đến tháng 4-5.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ SINH THÁI
1. Thời tiết khí hậu
1.1 Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp bình quân cả năm từ 25oC – 30oC, nhiệt độ dưới 15oC và cao hơn 40oC tiêu không phát triển được.
1.2 Ẩm độ: Ẩm độ thích hợp bình quân 75 – 90%, ẩm độ cao làm cho hạt phấn dễ dính vào nuốm nhị cái và thời gian thụ phấn kéo dài do nuốm nhụy trương to khi có ẩm độ, tạo điều kiện cho sự hình thành quả tốt hơn.
1.3 Lượng mưa: Lượng mư yêu cầu cả năm từ 2.000 – 2.500mm, phân bố đều trong 7 – 8 tháng. Lượng mưa tối thiểu là 1.800mm. Cây tiêu cần có mùa khô rõ rệt khoảng 3 -4 tháng để quả chính tập trung. Tiêu không thích hợp với mưa lớn và đọng nước ở vùng rễ.
1.4 Gió: Tiêu không thích gió lớn, gió dễ làm đổ nọc tiêu gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của tiêu. Gío lạnh về mùa đông ảnh hưởng đến ra hoa, đậu quả.
1.5 Ánh sáng: Tiêu là cây ưa ánh sáng, nhất là trong thời kỳ cho quả. Tuy nhiên tiêu cần cây che bóng khi thơi tiết nắng gắt.
2. Đất đai:
Tiêu có thể trồng ở nhiều loại đất khác nhau: đất đỏ Bazan, đất sét pha cát, phù sa bồi, đất xám…
Đất dễ thoát nước đặc biệt không úng ngập, mực nước ngầm sâu > 1m. Đất giàu mùn, tơi xốp, thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình, giàu dinh dưỡng, độ pH: 5,5-6,5.
III. GIỐNG - KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG
1. Giống tiêu
1.1 Một số giống địa phương
1.1.1 Tiêu trâu: Có 2 loại lá tròn và lá dài, là giống chống chịu điều kiện ngoại cảnh và sâu bệnh tốt, ít phải chăm sóc, hạt lớn nhưng hạt đóng thưa, năng suất thấp.
1.1.2 Tiêu sẻ:
- Sẻ đất đỏ: lá nhỏ dài 10-12 cm, rộng 4,5-5 cm, hơi thuôn màu xanh đậm, chùm quả ngắn, đóng hạt dày năng suất trung bình 2-3 kg tiêu đen/ nọc/năm.
- Sẻ mỡ, sẻ Phú Quốc: lá dạng bầu, chùm quả ngắn hạt lớn, hạt đóng dày chịu hạn tốt, ít nhiễm bệnh.
- Tiêu Vĩnh Linh: Lá dạng trung bình chùm quả dài hạt đóng dày, năng suất cao ổn định, chất lượng hạt tốt, thích nghi cao với điều kiện sinh thái của các tỉnh miền Đông Nam Bộ, dễ nhiễm bệnh chết chậm.
1.2 Một số giống tiêu nhập nội
1.2.1 Tiêu Indonexia (Lada Belangtoeng): được nhập từ Indonexia từ năm 1947, lá lớn, dễ trồng, năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu 1 số bệnh ở rễ đặc biệt là tuyến trùng, kháng bệnh chết nhanh và bệnh chết chậm khá, phải có thời gian hạn ngắn trong mùa khô mới cho năng suất cao. Nhược điểm cơ bản của giống tiêu này là trong điều kiện đất xấu, thâm canh kém cây chậm ra hoa, năng suất năm đầu không cao và kém ổn định.
1.2.2 Tiêu Ấn Độ (Pannijur-1): lá to, tròn hoặc dài, chùm quả dài, hạt đóng dày, phát triển mạnh, năng suất cao, cho qủa sớm, phẩm chất hạt tốt, kháng bệnh chết nhanh và chết chậm trung bình, trong điều kiện không thâm canh cho năng suất thấp.
1.2.3 Tiêu Campuchia (Sréchéa, Kam chay, Kép…): khả năng chống chịu điều kiện ngoại cảnh tốt, hạt đẹp, ra hoa hơi muộn, năng suất ít ổn định, dễ nhiễm bệnh chết héo.
Trong điều kiện tự nhiên, sinh thái của Đồng Nai nhà vườn nên chọn trồng một số giống tiêu có năng suất cao, chất lượng tốt, ít nhiễm bệnh, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu như: Giống Tiêu Pannijur – 1, giống tiêu Lada Belangtoeng, giống tiêu Vĩnh Linh.
2. Kỹ thuật nhân giống
2.1 Chọn cây giống
- Chọn vườn tiêu tốt không có nguồn bệnh, cây tiêu không nhiễm bệnh, cho năng suất ổn định.
- Cây có tán phân bố đều, đốt ngắn, khả năng phân cành tốt có nhiều cành ác.
- Gié hoa dài, hạt to mang nhiều hạt, chín tương đối tập trung.
2.2 Nhân giống
2.2.1 Nhân giống bằng hạt:
- Cây mọc khỏe, hệ số nhân cao
- Cây con không đồng đều, chậm cho trái, cây đơn tính (thường sử dụng trong lai tạo).
Bóc sạch lớp vỏ ngoài hong khô trong mát, lên líp gieo hạt sau 2-2,5 tháng nhổ cây con cho vào bầu, khi cây 6-7 lá thật đem trồng.
2.2.2 Nhân giống bằng phương pháp chiết, ghép, nuôi cấy mô:
Ít được sử dụng.
2.2.3 Nhân giống bằng cách giâm cành:
- Dây lươn: là dây mọc sát gốc, bò dưới đất, lóng dài. Nhân giống từ dây này chậm cho trái, tỷ lệ sống thấp (< 60%) lóng dài khó vận chuyển, phải đôn dây nhưng cho năng suất cao, ổn định, thời gian kinh doanh kéo dài (³ 30 năm) giá rẻ.
Chọn dây to khỏe cho dây leo lên nọc tạm thời khi dây dài 1-1,5 m, được 5 tháng cắt trồng, cắt bỏ phần ngọn non, bỏ lá, 1 hom 2-3 mắt.
- Dây chính: cho cây sinh trưởng mạnh, tỷ lệ sống cao (> 90%) mau cho trái, năng suất cao, ổn định, thời kỳ kinh doanh kéo dài (> 25 năm). Chọn dây có tuổi 1-1,5 năm, cắt bỏ phần ngọn non, cắt cách gốc 25-30 cm, bỏ lá, 1 hom 3-4 mắt. Nếu cây tiêu sau trồng 2 năm trở đi thì lấy cành tược làm hom giâm.
- Dây ác: Là những cành cho trái, tỷ lệ sống cao, mau cho trái, năng suất thấp, tuổi thọ ngắn (5-7 năm).
Chọn những cành to, khỏe, cắt bỏ lá và cành cấp 2, 1 hom 3-4 đốt, đem trồng.
2.3 Ươm hom
Đất phải tơi xốp, nhiều mùn (3 phần phân hữu cơ hoai + 1 phần lân, vôi + 6 phần đất) lên líp hoặc cho vào bịch ươm có kích thước 8 x 15 cm cắt đáy (hoặc dùng giỏ tre). Hom cắt hơi xiên, vết cắt cách mắt 3-4 cm, mỗi hom cắt 3-4 mắt. Sau khi cắt hom xử lý bằng hóa chất cho mau ra rễ, sát trùng hom bằng dung dịch Benlat C 4 ‰ trong 5 phút. Cắm mỗi bịch 2-3 hom, lấp đất 2 mắt chừa 2 mắt. Chuyển vào vườn ươm che kín gió và điều chỉnh đạt 30% ánh sáng. Khi mầm cao 3-4 cm tưới SA pha loãng (5 ‰) tuần 1 lần, trước khi đem trồng 1 tháng cần dỡ bớt giàn che (70-80 % ánh sáng). Thời gian trong vườn ươm từ 4,5-6 tháng (4-6 cặp lá).
2.4 Tạo vườn lấy hom giống
Trồng với khoảng cách 1 x 1m, nọc cao 2,5m. Cắt hom sau khi trồng được 12-18 tháng, cắt vào mùa mưa, sau đó cứ 1,5-2 tháng cắt 1 lần.
IV. K Ỹ THUẬT TRỒNG V À CHĂM SÓC
1. Chuẩn bị đất
Đất phẳng dọn sạch tàn dư thực vật, độ dốc < 8%, cày sâu 25-30 cm, phơi đất trong 1 tháng, xử lý đất bằng Basudin hoặc Furadan 20-30 kg/ha.
Đào mương thoát nước và cắm cọc xác định vị trí.
2. Kỹ thuật trồng
2.1 Thời vụ trồng: Thời vụ trồng thích hợp từ tháng 5DL đến tháng 8 DL.
2.2 Mật độ và khoảng cách:
2 x 2m ® 2.500 cây/ha.
2 x 2,5m ® 2.000 cây/ha.
2,5 x 2,5m ® 1.600 cây/ha.
3 x 3m ® 1.100 cây/ha.
Mật độ, khoảng cách còn phụ thuộc vào đất trồng, đất tốt trồng thưa, đất xấu trồng dầy …
2.3 Cách trồng
2.3.1 Chuẩn bị cây nọc
2.3.1.1 Cây nọc sống: Phải trồng trước 1 năm.
Cây vông, lồng mứt, gạo, cóc rừng, mít, dừa, cau …
Ưu điểm: Rẻ tiền, dễ kiếm, che bóng giai đoạn đầu, giữ ẩm trong mùa khô.
Nhược điểm: Cạnh tranh ánh sáng, nước, dinh dưỡng với tiêu làm hạn chế năng suất. Tốn công tạo tỉa tán cho cây nọc, dễ phát sinh bệnh trong mùa mưa.
- Khó chủ động trong việc trồng và mở rộng qui mô canh tác.
- Đối với 1 số cây nọc to, phân cành ngang làm giảm mật độ tiêu.
2.3.1.2 Cây nọc chết
- Không cạnh tranh ánh sáng, dinh dưỡng, tăng mật độ, ít nhiễm bệnh.
- Vốn đầu tư cao, phải che nắng giai đoạn trồng mới và mùa khô.
* Nọc bằng cây chịu mưa, nắng, không bị mối ăn (cây anh đào, cà chắc, cà đuối…).
* Nọc xây bằng gạch hoặc bằng đá:
Có hình tròn hoặc hình trụ, xây tùy kích thước nhưng phổ biến có chiều cao 3-3,5 m, đường kính đáy 1-1,2m, đường kính ngọn 0,7-0,8m. Ngoài ra còn có nọc: trụ xi măng, nọc hàng rào.
2.3.2 Cách trồng
- Đào hố kính thước 50 x 50 x50cm hoặc xẻ rãnh quanh nọc xây 30-40cm, đào cách chân nọc 20-30cm.
- Bón lót 1 hố 10-20kg phân chuồng ủ hoai + 0,3-0,5kg super lân + 0,5kg vôi bột trộn đều với đất ủ thành mô đất hơi vun lên trong hố trước khi trồng 15-20 ngày.
Đầu mùa mưa khi hom đủ tuổi tiến hành trồng, đào 1 hố giữa mô đất, đặt hom nghiêng 450- 600, hướng ngọn tiêu về phía cây nọc lấp đất, ém chặt gốc tưới nước nhẹ đủ ẩm (chú ý không trồng sâu dưới mặt đất). Nên trồng theo hướng đông, với nọc chết đặt bầu gần hơn nọc sống. Với nọc xây nên đặt cây nọ cách cây kia 30cm. Sau khi trồng phải che nắng cho cây con 1 thời gian.
3. Bón phân và kỹ thuật bón phân
3.1 Phân bón:
3.1.1 Phân hữu cơ: Trong phân có đầy đủ khoáng đa, trung, vi lượng cần thiết cho cây sử dụng, nếu không có phân hữu cơ, cần phải bổ sung phân vi lượng. Có thể thay thế phân hữu cơ bằng phân hữu cơ vi sinh với lượng 2 tấn/ha/năm.
3.1.2 Phân vô cơ
- Đạm: giúp tiêu sinh trưởng phát triển tốt, nhiều chồi, ra nhiều hoa, kích thước trái to. Thiếu đạm lá vàng cây cằn cỗi. Dư đạm lá nhiều, dễ nhiễm bệnh, ít trái.
- Lân: giúp bộ rễ phát triển tốt, hút được nhiều chất dinh dưỡng, chịu hạn tốt. Thiếu lân cây cằn cỗi ít đậu trái. Lân cần trong giai đoạn cây con và đầu thời kỳ ra hoa.
- Kali: Giúp cây cứng chống chịu sâu bệnh và thời tiết bất thường, tăng phẩm chất hạt. Thiếu kali cây khó hấp thu đạm, rụng hoa, cây cần kali trong giai đoạn cây non, hạt vào chắc và chín.
- Magiê (Mg): Cây rất cần Mg do đó phải bổ sung thêm Mg bằng cách tưới Sunfat Mg 1% (1-2 lít/gốc) hoặc phun phân vi lượng qua lá.
- Vôi: Rất cần cho cây tiêu sử dụng, phòng chống bệnh… Hai năm bón thêm 0,5-1kg vôi cho 1 cây. Với trụ xây phải bón nhiều hơn. Định kỳ 2-3 tháng xịt phân bón lá 1 lần.
3.2 Lượng phân bón (kg/ha/năm): Tính mật độ: 2000 cây/1ha.
3.3 Thời kì bón
* Khi tiêu còn nhỏ pha nước tưới 1-2 tháng/1 lần.
* Khi tiêu lớn chia làm 5 lần bón:
- Sau thu hoạch bón toàn bộ phân hữu cơ + toàn bộ phân lân theo rãnh, hoặc hốc rồi lấp phân lại.
- Tháng 4: Hoà tan 100 kg Urê + 70 kg Lân + 40 kg Kali
- Tháng 6: Hoà tan 90 kg Urê + 80 kg Lân + 40 kg Kali
- Tháng 8: Hoà tan 80 kg urê + 100 kg Lân + 50 kg Kali
- Tháng 10-11: Hoà tan 70 kg Urê + 90 kg Lân + 80 kg Kali
- Khi đã tượng trái: Hoà tan 60 kg urê + 60 kg Lân + 40 kg Kali
3.4 Tưới nước kết hợp với bón phân vô cơ qua đường ống:
Mỗi lần bón hoà tan hoàn toàn lượng phân trong bồn, mở hệ thống tưới tiết kiệm nước, phân theo hệ thống đi đến từng gốc cây.
Các ưu điểm của phương pháp tưới nước tiết kiệm và bón phân qua đường ống:
+Tiết kiệm lượng nước tưới
+Tiết kiệm dầu tưới
+Tiết kiệm công tưới
+Tiết kiệm công làm bồn
+Tăng hiệu quả của việc bón phân
+Tăng năng suất và chất lượng trái
- Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng nông hộ có thể lấp đặt hệ thống tưới nước kết hợp bón phân qua đường ống theo một số mô hình
Chú thích:
Căn cứ vào hướng dẫn các đợt bón phân trong quy trình kỹ thuật, mỗi đợt lượng phân bón được hòa tan vào hệ thống tưới 3-4 lần mỗi lần cách nhau 7 ngày, chia nhỏ lượng phân ra các lần bón như thế sẽ góp phần giảm thất thoát phân bón, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón của cây trồng.
Pha phân: Khi bón phân cho cây, phân bón được ngâm trước 1 ngày, thường xuyên khuấy đều khi ngâm phân để hòa tan hoàn toàn lượng phân cần tưới vào bồn dung dịch phân (không nên sử dụng các lọai phân khó tan).
Nguyên tắc hoạt động:
- Khi vận hành máy bơm, dưới lực hút của máy nước từ giếng và dung dịch phân trong bồn chứa sẽ được hút vào máy bơm và được khuấy đều trong hệ thống và ra các vòi tưới cho cây. Chúng ta có thể thay đổi lượng phân bón trước khi đi vào trong máy bằng khoá điều chỉnh.
- Từ máy bơm, một lượng lớn nước chứa phân được đưa đến bộ lọc (tránh nghẹt bét) rồi đến ống cấp 1. Nếu nước trong bồn bị cạn hệ thống sẽ ngưng hoạt động.
- Từ ống cấp 1 nước chứa phân được đưa đến các ống cấp 2, rồi đến ống cấp 3 tưới vào từng gốc cây.
- Ống câp 2 được đặt dọc theo các hàng cây, trên các ống cấp 2 này chúng ta lắp đặt hệ thống van điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước vì nơi gần máy bơm áp lực và lưu lượng nước cao hơn những nơi cách xa máy bơm. Ngoài ra các van này cũng rất quan trọng để điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước cho những vùng có địa hình không đồng đều, đồi dốc …
* Chú ý:
Trước khi cho hệ thống ngừng cần phải khóa van điều chỉnh lượng dung dịch phân lại.
Nguyên tắc hoạt động:
- Khi vận hành máy bơm, dưới lực đẩy của máy nước từ giếng và dung dịch phân trong bồn chứa sẽ được hút vào máy bơm và được hòa đều trong hệ thống và ra các vòi tưới cho cây. Chúng ta có thể thay đổi lượng phân bón trước khi đi vào trong máy bằng khoá điều chỉnh.
- Từ máy bơm, một lượng lớn nước chứa phân được đưa đến bộ lọc (tránh nghẹt bét) sau đó đến ống cấp 1.
- Từ ống cấp 1 nước chứa phân được đưa đến các ống cấp 2, rồi đến ống cấp 3 tưới vào từng gốc cây.
- Ống câp 2 được đặt dọc theo các hàng cây, trên các ống cấp 2 này chúng ta lắp đặt hệ thống van điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước vì nơi gần máy bơm áp lực và lưu lượng nước cao hơn những nơi cách xa máy bơm. Ngoài ra các van này cũng rất quan trọng để điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước cho những vùng có địa hình không đồng đều, đồi dốc …
Nguyên tắc hoạt động:
- Nước và dung dịch phân từ các bồn chứa sẽ được hòa đều trong đường ống, đến bộ lọc (tránh nghẹt bét) sau đó đến ống cấp 1 và ra các vòi tưới cho cây. Chúng ta có thể thay đổi lượng phân bón trước khi đi vào trong hệ thống bằng khoá điều chỉnh
- Từ ống cấp 1 nước chứa phân được đưa đến các ống cấp 2, rồi đến ống cấp 3 tưới vào từng gốc cây.
- Ống câp 2 được đặt dọc theo các hàng cây, trên các ồng cấp 2 này chúng ta lắp đặt hẽ thống van điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước vì nơi gần máy bơm áp lực và lưu lượng nước cao hơn những nơi cách xa máy bơm. Ngoài ra các van này cũng rất quan trọng để điều chỉnh lưu lượng và áp lực nước cho những vùng có địa hình không đồng đều, đồi dốc …
* Chú ý:
- Bồn chứa nước phải cao để đủ áp lực nước.
-Bồn chứa dung dịch phân cũng phải cao để nước tưới không bị đẩy ngược lại bòn chứa phân.
4 Buộc dây:
Tạo cho thân to khỏe, rễ bám chắc, chọn dây bền chắc không thấm nước, định kỳ 7-10 ngày buộc 1 lần, khi cây cao 60-80cm chưa phát cành tiến hành bấm ngọn, khi cây cao 80-100cm chưa phân cành ngang lại bấm tiếp. Để 3-4 dây chính trên 1 nọc tùy kích thước nọc, nên phân bố dây đều trên nọc không buộc đè lên nhau.
5. Trồng dặm: sau trồng 20 ngày kiểm tra, cây nào chết tiến hành trồng dặm và tăng cường chăm sóc cây dặm để cây phát triển kịp cây trước, phải che bóng trong giai đoạn cây con.
6. Xén tỉa, tạo hình:
6.1 Đối với dây lươn: Sau khi trồng 1 năm tiến hành đôn dây quanh gốc 2-3 vòng lấp đất đặt ngọn bám vào nọc. Sau 1 năm tiến hành tạo tỉa như thân chính.
6.2 Làm cỏ xới xáo vun gốc: Làm cỏ tạo thành các băng sạch cỏ vào mùa mưa 1-2 tháng/lần, mùa khô 2-3 tháng/lần. Đầu và cuối mùa mưa cày xới quanh gốc tránh làm tổn thương đến rễ.
6.3 Tỉa cành và hoa:
- Vào mùa mưa theo dõi tỉa bỏ các cành lươn, cành tược mọc ngoài bộ khung thân chính, tỉa 2-3 lần, chỉ nuôi cành tược bổ sung khi cần thiết.
- Từ năm thứ 10 sau khi trồng bắt đầu phát sinh cành ác nhỏ và yếu không mang trái cần theo dõi dể tỉa bỏ kịp thời.
Sau khi cây ra hoa và hình thành trái thường có những đợt hoa ra trễ (tháng 7-8) cần tỉa bỏ vì nếu không tỉa bỏ hoa bị rụng hạt lép, làm ảnh hưởng đến vụ sau.
VII. SÂU BỆNH HẠI CHÍNH VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
1. Sâu hại
1.1 Mối hại tiêu: Mối xông đất tạo thành đường di chuyển trên trụ, dây và rễ tiêu. Mối gây hại phần non của rễ, phần vỏ của thân và tạo vết thương trên các bộ phận này tạo điều kiện cho nấm, tuyến trùng xâm nhập và gây bệnh cho cây tiêu.
- Biện pháp phòng trừ:
Trên cây tiêu và thân cây trụ: cạo bỏ đường đất di chuyển của mối, phun kỹ một số loai thuốc hóa học như: Pyrinex 20EC, Basudin 40EC.
Dưới đất: xới đất xung quanh trụ tiêu, rải một trong số các loại thuốc trừ mối sau: Diaphos 10H, Padan 4H, Furadan 3H.
1.2 Rệp sáp giả (Pseudococidae):
Gây hại trên đọt non, lá non, chùm quả, dây tiêu trên mặt đất, hoặc gốc tiêu, rễ tiêu dưới mặt đất.
- Biện pháp phòng trừ:
Trên cây tiêu: Phun rửa bồ hóng, rệp sáp bằng nước sau đó phun thuốc trừ sâu kỹ trên cây, mặt đất bằng Penbis 10ND, Sherzol, Sevin 80WP nồng độ 1,5-2 ‰.
- Đối với rệp sáp ở dưới gốc: bới đất quanh nọc, xới đất khô cứng quanh nọc tiêu, rải thuốc hột lấp đất tưới nước. Sử dụng bằng thuốc Supracide hoặc Puradon 3H.
2. Bệnh hại:
2.1 Bệnh tuyến trùng
Hồ tiêu bị nhiều loại tuyến trùng gây hại, trong đó có hai loại tuyến trùng thường gặp là: Tuyến trùng gây nốt sần Meloidogyne và tuyến trùng đục hang Radopholus.
Tuyến trùng đục và rễ chích hút dịch cây, tao điều kiện cho các loại nấm xâm nhập và gây hại. Rễ tiêu bị sưng, thối, lá vàng sinh trưởng kém, không ăn phân, rễ có bướu hoặc thối từng điểm, thân khô héo, tạo vết thương làm nấm xâm nhập phát triển mạnh.
- Biện pháp phòng trừ:
- Bón phân cân đối, vệ sinh đồng ruộng
- Trồng cúc vạn thọ xung quanh gốc tiêu (rễ cây cúc vạn thọ tiết ra một chất làm hạn chế sinh sản của tuyến trùng).
- Sử dụng Mocap 10G, xới đất quanh gốc bệnh cách gốc 30-50cm, rộng 10cm, sâu 10-15cm, rải thuốc 20-30gr/gốc lấp đất tưới nước. Mocap 720 ND pha 1cc/1lít nước tưới đều 2 lít/gốc hoặc sử dụng Regent, Vibasu ..
2.2 Bệnh chết nhanh: Nguyên nhân do nấm Phytophthora sp.
Do tác động của côn trùng, tuyến trùng, chăm sóc xới xáo, ngập úng… làm tổn thương rễ, sau đó nấm xâm nhập và gây hại.
Các đọt mầm sinh trưởng không dài thêm, lá chuyển màu xanh nhạt, mềm yếu, cành mềm yếu.
Những ngày tiếp theo lá chyển sang màu vàng làm lá, hoa và cuối cùng là cành bị rụng.
Bệnh gây hại trên tất cả các bộ phân của cây.
- Biện pháp phòng trừ:
Chọn giống kháng bệnh và không bị bệnh.
Bón phân cân đối làm cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, tạo sức đề kháng cho cây. Chú ý đến sử dụng nhiều phân hữu cơ hoặc phân vi sinh.
Tránh gây vết thương cho cây khi chăm sóc.
Thoát nước triệt để trong mùa mưa, sử dụng hệ thống tưới nước kết hợp bón phân qua đường ống.
Tăng cường bón vôi và tiêu diệt côn trùng, tuyến trùng, mối kiến gây hại rễ.
Phun một số loại thuốc trừ bệnh sau: Aliette 80WP, Rydomyl…
2.3 Bệnh chết chậm:
Bệnh do nhiều loại nấm gây hai: Fusarium sp, Rhizoctonia sp, Pythium sp các loại nấm này thường tồn tại trong đất, trên tàn dư của cây trồng trước, trên cây giống…
Cây bị bệnh sinh trưởng và phát triển chậm, lá nhạt, màu vàng hoặc biến dạng.
Hoa quả rụng dần từ gốc đến ngọn.
Các đốt cũng rụng dần từ trên xuống dưới, gốc thối, bó mạch thân cây hóa nâu.
- Biện pháp phòng trừ: (như bệnh chết nhanh)
2.4 Bệnh thán thư: bệnh do nấm Colletotrichum sp gây ra
Cây bị bệnh trên lá, đọt hoa và quả xuất hiện nhiều đốm vàng nhạt không đều có quần đen bao quanh. Hoa, quả khô đen sau đó lan sang dây nhánh làm khô cành, rụng đốt.
- Biện pháp phòng trừ:
Thu dọn cành, lá bị bệnh đem tiêu hủy.
Bón phân cân đối, hợp lý, đủ vi lượng.
Phun một số loại thuốc hóa học: Carbendazim 500FL, Fungugran OH 50WP…
2.5 Bệnh tiêu điên
Do virus gây nên, tác nhân truyền bệnh là rầy làm lá cong vẹo, cây lùn, lá nhỏ lại, cằn cỗi, năng suất giảm.
- Biện pháp phòng trừ:
Phòng bệnh bằng cách nhổ bỏ cây bị bệnh, phun thuốc trừ rầy Trebon hoặc Fenbis.
2.6 Bệnh sinh lý:
- Thiếu đạm: Thường xảy ra ở giai đoạn sau thu hoạch, lá vàng, vàng cam, ngọn lá cháy, lá rụng.
- Thiếu Kali: Đỉnh lá bị cháy kéo dọc theo rìa lá, lá dòn dễ gãy, phiến lá cong, dây không chết nhưng năng suất giảm.
- Thiếu lân: Cây tăng trưởng chậm lại, cằn cỗi, ít đậu trái.
- Thiếu Mg: Phổ biến ở giai đoạn ra hoa và lúc trái già, lá mất màu diệp lục, gân lá màu vàng, lá trưởng thành màu xanh nhạt, vàng dọc theo chiều dài gân lá, làm lá rụng.
- Thiếu Ca: Thiếu nặng cây cằn cỗi, các lóng ngắn lại, lá non màu xanh nhợt, mép lá cháy xém gần phiến lá màu xanh nhạt, xuất hiện các đốm nâu ở giữa gân lá mặt trên và mặt dưới lá.
IX. THU HOẠCH – BẢO QUẢN
Không nên thu hoạch khi quả tiêu chưa chín sinh lý, thời điểm tốt nhất để thu hoạch tiêu đen khi chùm quả có trên 5% quả chín và làm tiêu sọ khi chùm quả có trên 20% quả chín.
Thu hái xong có thể phơi ngay làm tiêu đen hoặc ủ 1-2 ngày trong mát cho tiêu tiếp tục chín để làm tiêu sọ. Trong quá trình ủ phải thường xuyên trộn đều để quả chín đạt độ đồng đều cao, tách hạt ra khỏi gié sau khi phơi 1-2 nắng.
Phơi tiêu trên sân xi măng, tấm bạt, nong tre… nếu nắng to chỉ cần phơi 3-4 nắng là đạt. Độ ẩm của hạt phải đảm bảo dưới 15%.
Có thể dùng máy sấy để sấy tiêu, nhiệt độ ổn định trong buồng sấy khoảng 50-60oC cho đến khi hạt tiêu khô.
Sau khi phơi, sấy hạt tiêu cần được làm sạch tạp chất, lá, cuốn gié bằng sàng, quạt.
Hạt tiêu được bảo quản vào bao có hai lớp, lớp trong là bao nilon (PE) để chống ẩm, lớp ngoài là bao PP hoặc bao bố. Cất giữ trong kho nơi thông thoáng, không quá nóng và không quá ẩm.
X. KỸ THUẬT SƠ CHẾ HẠT TIÊU
1. Sơ chế tiêu đen
Sản phẩm tiêu đen là tiêu sau khi thu hái đem về được phơi khô. Trong một chùm tiêu khi quả chín vàng hay đỏ, ta hái nguyên cả chùm đem về chất thành đống ủ trong khoảng 5 giờ đồng hồ, sau đó đem ra phơi nắng, sấy khô loại bỏ tạp chất, đóng bao cất giữ trong kho. Tiêu đen thương phẩm sau khi sơ chế còn lại bằng khoảng 1/3 tiêu xanh.
Để cho hạt tiêu đen bóng có màu đẹp, trước khi phơi nên nên nhúng các chùm quả vào nước nóng 80oC có pha ít muối trong 1-2 phút, lấy ra để trong mát cho ráo nước rồi đem phơi. Đây cũng là phương pháp chế biến tiêu đen phổ biến trong hộ gia đình trồng tiêu hiện nay.
2. Sơ chế tiêu trắng
Tiêu trắng hiện nay có giá trị cao hơn tiêu đen, tuy nhiên chế biến tiêu trắng khó hơn tiêu đen.
Tại đảo Bangka người ta thu hoạch tiêu chín, chùm quả được đưa vào túi, nén chặt, cột chặt và ngâm trong nước hồ có thể thay đổi nước được hoặc ngâm trong nước chảy. Sau 6-10 ngày ngâm. phần trung quả bì đã mềm ra, có thể tách ra một cách dễ dàng, vớt tiêu ra rửa sạch, lọc bỏ cộng gié, vỏ ngoài và các tạp chất khác, hạt tiêu còn lại đem phới nắng 2-3 ngày cho thật khô. Khi mới rửa hạt tiêu có màu xám khi khô sẽ có màu trắng sữa.
Tại Ấn Độ người ta ngâm tiêu đen trong 2-3 ngày rồi chà tiêu giữa 2 tấm thảm làm bằng sợi dừa để loại bỏ vỏ của tiêu, sau đó đem phới khô.
Tại Campuchia và ở các vùng trồng tiêu ở nước ta cũng chế biến tiêu trắng từ tiêu đen bằng cách như sau: lấy những quả lớn sau khi đã chọn lọc, đóng ¾ bao ngâm trong nước lợ từ 10-15 ngày, vỏ ngoài phồng lên, mục nát, sau đó vớt ra đưa vào ½ thúng, ngâm trong nước, lấy phần chân đạp cho vỏ tróc ra và cuối cùng là đãi bỏ vỏ, rửa sạch đem phơi, sấy khô.

Theo Hiệp Hội Hồ Tiêu Việt Nam
Read more ...